Vụ “mượn bút tiền nhân” của nhà thơ tay trái, tiến sĩ công nghệ thông tin Hoàng Quang Thuận (*, HQT) vừa qua quả là một cái tát trời giáng vào lâu đài cát văn học bao cấp mậu dịch đang còn bám trụ với lý do câu giờ biện hộ cuối cùng! Đó là một vết nhơ không thể cãi lại! Một nỗi nhục ê chề không cách gì gượng dậy! Là kết quả tất yếu của một nền văn học hà hít tem phiếu ưu tiên mãi mãi chỉ là “bé bự” không thể lớn được! Một môi trường chữ nghĩa với “thơ trí” lọ mọ, tối tăm, u mê, ú ớ, đồng cô bóng cậu nên mới bấu víu vào Thần Phật, mong muốn một bước hay một giấc mộng lên đời thành hiện thực. Có một điều giản dị thế này, những kẻ ăn mày dù có xin được cơm tám giò chả nhưng không thể nào trở thành sang trọng và vĩ đại. Triết gia Nietzsche nói “Chúng ta không nên đón nhận mà phải sáng tạo, chúng ta không nghèo khổ đến mức phải xin bố thí của thần thánh.” Đây là nguyên lý duy nhất, bởi kẻ sáng tạo phải tạo ra cái của mình, cho dù hang núi có tạo ra tiếng sáo thì đó là thiên tạo chứ không phải nhân tạo, cho dù người mẫu có bán một đêm được vạn lạng bạc thì cũng không phải tài năng nhân tạo mà chỉ là “vốn tự có”. Nhân gian có câu nói lái rất hay “cái trời cho” chỉ là “trò chơi”. Và có một thước đo giá trị tiên quyết không thể cãi được khác “kinh thành La Mã không thể xây trong một ngày”. Chẳng lẽ HQT lại trở thành một ngoại lệ sao? Có thể đúng đấy vì tất cả những kẻ lười biếng dốt nát muốn ăn may khi chơi sổ số thì đều mong mình được trở thành ngoại lệ. Và cả những người đẩy đít thơ HQT đi dự giải Nobel thì đều mong rằng đó là một ngoại lệ sẽ lách được qua kẽ hở.
Than ôi, bốn câu thơ tứ tuyệt khác gì bốn hòn gạch, thôi cứ cho là bốn đống gạch đi làm sao xây thành lâu đài chứ! Hãy nhìn kia và đừng ảo mộng, ngay cả Đỗ Phủ, Lý Bạch sống lại, thì những mẩu thơ của các ông và hàng nghìn nhà thơ Đường xấp xỉ kia cũng không thể ứng cử giải Nobel đâu, mà hậu duệ của các ông chỉ gọi những mẩu bốn câu đó là “mảnh vụn lấp lánh” thôi. Ngay cả Lỗ Tấn là một tượng đài văn học đồ sộ, cha đẻ của nền văn học Trung Quốc hiện đại còn chưa ẵm giải Nobel thì mấy mẩu vần vèo tức cảnh sinh hoạt của các ông có ý nghĩa gì? Văn hào Albert Camus cho rằng; cái vĩ đại của con người nằm ở bộ não kiến trúc chứ không phải ở vật liệu. Ông nói “không có sự sắp đặt thì đống đá không thể trở thành lâu đài”. Vậy đấy, đống đá ngoài trời so với tòa lâu đài, chỉ khác nhau ở chỗ đống đá thì tự nhiên, còn lâu đài là những viên đá được sắp đặt. Nhìn vào bốn câu thơ tứ tuyệt dù có bằng trắc khúc mắc chăng nữa làm sao thấy được nhà kiến trúc vĩ đại ở đó mà hy vọng vào giải ăn may Nobel, thật ra trong trường hợp này là mong ban giám khảo giải Nobel cũng úm ba la, tối tăm, ấm ớ, ăn gian giống mình???
“Giết vua, giết cha không phải việc xảy ra trong ngày”, đó là phương ngôn của người Trung Quốc muốn nói rằng, việc gì lớn cũng không thể thình lình xuất hiện mà đó là kết quả được lên mầm hay âm mưu từ rất lâu trong quá khứ. Việc đạo thơ giả thánh thần của HQT cũng vậy, nó không chỉ diễn ra vào tháng 8/2012, mà đó là kết quả tất yếu từ một nền văn học bao cấp ú ớ, bản năng, cục bộ, co kéo nhóm lợi ích, bảo hiểm sự bất tài bằng phe nhóm dưới cái mác “sáng tạo tập thể”, trình độ văn hóa công-nông-binh cây nhà lá vườn, trình độ văn thơ nghiệp dư, kiến thức là lớp tráng men của trạm cấp cứu văn hóa Nguyễn Du…, ấu niên hơi một tí lại đòi bú sữa cấp trên, hơi một tí là mách lẻo lãnh đạo… “cái kim trong bọc mãi cũng bị lòi ra”, một trình độ và một đời sống văn học dựa trên bú mớm như vậy, tất yếu có ngày bị lòi kim ra. Một trình độ mà nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (NHT) gọi là vô học, hay “đám giặc già thơ phú lăng nhăng”. Dù bị mắng mỏ như thế, hàng trăm nhà thơ trong hội và hàng vạn nhà thơ trong nước tức tối lắm mà chẳng làm gì để phản bác được. Tại sao? Than ôi vì tầm vóc nhỏ bé quá, những hòn sỏi có chất đống lên nhau làm sao thành non bộ để đọ với người ta. Chẳng những thế rất nhiều kẻ trong đám này còn công kênh NHT lên mây xanh rằng: “Nguyễn Huy Thiệp là bút pháp hậu hiện đại xuất sắc”. Hậu hiện đại ư? NHT không nói tròn một câu, một chữ tiếng Tây, nhạc cổ điển cũng không hay, tân nhạc cũng không biết, chỉ có đàn nhị sáo trúc trong đầu, viết văn thi dùng nhiều dấu chấm ngắt thành câu đơn giản, liệu có bất cứ nền tảng nào để thấy NHT có bút pháp hiện đại hay hậu hiện đại không?
Sự tối tăm từ bản thân mình, dẫn đến sự tối tăm khi xem xét đánh giá người khác là lẽ đương nhiên. Và có đương nhiên không khi các hội đồng chấm giải cũng tối tăm? Vào cuộc thi nào, người ta cũng quảng bá, sẽ có những nhà văn, nhà thơ có uy tín chấm giải. Chẳng lẽ các nhà uy tín đó lại nhiều đến thế trong Hội, mà không cần nêu tên trước muốn tìm ra lúc nào thì tìm. Có một chuyện tức cười và điển hình của ban giám khảo rằng: có người trong Hội Nhà Văn tố cáo, ban chấm giải văn học dịch kia, chẳng có ai biết ngoại ngữ cả, thì liền được các vị trong ban đó đáp lại “chúng tôi không biết ngoại ngữ nhưng vẫn biết thưởng thức văn học dịch”. Trời ơi, thế có khác nào, người ăn món ăn lại đi chấm giải nấu bếp của các đầu bếp. Người lim dim nghe nhạc lại cho điểm nhạc sĩ. Học trò lại chấm điểm thầy giáo dạy mình? Không, người chấm điểm phải là người cao hơn như hội đồng thuộc ban giám hiệu. Có những người làm thơ cả đời không bằng người khác làm trong một đêm vậy mà cũng chấm giải người ta. Điều này hoàn toàn không có gì khó hiểu. Mao Trạch Đông từng nói; Liên Xô đã phóng tầu vũ trụ lên trời, trong khi đó chúng ta còn chưa phóng được một củ khoai tây. Cũng vậy, những người làm nghệ thuật bản năng như ngắt lá, gấp lại thổi, cho đó là hồn cốt của làng quê, làm sao có thể chạm đến những bản tổng phổ của dàn nhạc lớn. Làm thơ “bốn hòn gạch”, hoặc kéo dài thêm vài khúc, viết trường ca thì không có cốt truyện, chỉ là thứ nồi lẩu kéo dài vô tận, thì làm sao hình thành nổi một con phố, nói gì đến kinh thành La Mã trong nghệ thuật? Kết quả là người ta phát hiện ra các công thức cứng của các cuộc thi ở xứ ta:
1- Người được giải phải là người của báo khác, vì như vậy, tôi đã gắp cho anh, thì lúc khác anh phải gắp cho tôi.
2- Một anh già nào đó sắp về hưu, đó là giải dối già cho anh, coi như làm chính sách.
3- Một cô gái nào ở xa lắc xa lơ, coi như một phát hiện bút pháp quả đầu mùa. Loại này rất an toàn vì thân gái chân yếu tay mềm không thể uy hiếp trực tiếp đến lòng đố kỵ, chọn cái đứa gần nó vòi một chỗ thì rách việc.
4- Phải lại quả cho nhà tài phiệt đã đầu tư cho giải. Và (có lẽ) Hoàng Quang Thuận là người đầu tư trọn gói nên ẵm giải trọn gói cũng bình thường thôi???
Cái yếu kém duy nhất của nền văn học Việt Nam là thiếu lý trí. Vì thiếu lý trí nên người ta mới phải sống và sáng tác bằng cảm xúc, sau đó rêu rao về thiên bẩm như thể tuyên bố giá trị “thần thánh” nơi mình, đó cũng chính là câu chuyện của HQT và mở rộng ra hội thảo. Trình độ của nền văn học chúng ta nói chung mới chỉ là thứ văn hóa quần chúng được vào hội của nhà nước có con dấu và tem phiếu. Nó mới nằm ở tầm “hát hay không bằng hay hát”. Có thể lấy câu chuyện này làm kiểu mẫu điển hình. Chúng ta mới gấp chiếc lá để làm kèn, mới cắt quả bầu để làm đàn. Lúc nhỏ, tôi nghe một anh bạn thổi sáo, đang thổi, anh ta chạy ra sân rúng cây sáo vào bể nước, tôi hỏi tại sao, anh trả lời “vì cây sáo khô quá, nhúng vào nước cho tiếng nó tươi”. Khi lớn lên, tôi gặp một ông thủ trưởng công tác lâu năm trên Tây Bắc, ông ta nói mỗi dịp hội diễn văn hóa quần chúng ông ta lại gảy đàn đỏ cả mũi, con gái thấy hay, chết mê chết mệt! Tại sao gảy đàn lại đỏ mũi? Vì ông ta gảy đàn mũi, lấy tay gảy thẳng lên mũi, mồm phát ra tiếng ứ ứ coi như hộp đàn. Nghệ thuật như thế chỉ làm vui lúc tranh tối tranh sáng thôi, chứ làm sao đòi tiếp quản thành phố hay đi xứ được? Cũng một lần chúng tôi ngồi nói chuyện khi thổi sáo cho nhau nghe, một anh bạn khoe mình thổi sáo, anh kia liền bảo, ngày bé đi thả trâu thằng nào chẳng biết thổi sáo, nói rồi anh ta cầm lấy sáo thổi liền. Một lần khác, chính người lên dây đàn piano của nhạc viện nói với tôi, “anh bảo anh hay nhất làng, hay nhất nước, nhưng anh hát xoan hát xẩm có độ vạn người nghe, ra thế giới lại chẳng có ai đọ với anh, anh nhất làng, cũng là nhất nước, cũng là nhất thế giới luôn. Trong đó nếu anh chơi piano nhất tức là anh là nhất của muôn triệu người. Đây này, ngay như đàn bầu mà trong nhạc viện còn bảo: “Đàn bầu chỉ có một giây/ Đánh mười lăm ngày đã đi tây.” Vậy thì câu chuyện HQT muốn đem cái nhất của làng thơ ta mượn thần phật úm ba la đi tây có phải muốn mượn đàn bầu đi ẵm giải thế giới?
Nền văn học của ta yếu kém, không chỉ do các nhà văn, nhà thơ, mà còn do móng của cả nền văn học. Triết gia Nietzsche nói “Một dân tộc có thiên tài, không bằng cách chấp nhận thiên tài của dân tộc đó.” Âm nhạc cổ điển vào Việt Nam không có người nghe không phải nó dở mà do trình độ dân trí của ta còn thấp. Bằng chứng là ca nhạc tạp kỹ (cũng có nghĩa tạp pí lù), lại được giới bình dân mặc cả quần áo ngủ, áo hở nách đi xem rất đông. Vì sao? Vì nó hợp với thể tạng của họ. Vậy một số những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ở ta chớ có quá tự tin vào việc mình nổi tiếng, có khi đó chỉ là vì văn chương của mình dễ dãi bình dân. Người Việt nói chung rất ngại tư duy và phán xét bằng tư duy, cho dù họ có học nhiều học rộng chăng nữa, như tiến sĩ HQT chẳng hạn, dù có học cao bao nhiêu cũng muốn lẩn trốn tư duy để chạy vào vần vèo cảm xúc, có cả nghìn tổng giám đốc cũng thế, sau khi có chức quyền rồi, dù đỗ bằng gì, cũng không muốn tư duy chuyên ngành mà chỉ muốn làm thơ.
Còn lại rất nhiều trí thức Việt khác vẫn còn mang truyền thống “bánh chưng lại gạo”, học hành đỗ đạt bao nhiêu, đi Tây đi Tầu bao nhiêu, rút cục chỉ đòi hành quân về làng. Hãy xem kia, thánh Gandhi đã hành quân từ Nam Phi về quê hương mình với phong trào Bất bạo động đã làm rung chuyển cả Âu Mỹ. Tại sao ông làm được vậy? Vì ông đã thoát xác con người làng quê và cả dân tộc mình để trở thành công dân thế giới. Còn Lỗ Tấn trở thành cha đẻ của văn học hiện đại Trung Quốc vì mở màn đã sỉ vả cả dân tộc mình “người Trung Quốc chỉ giỏi ăn thịt người”, kể từ ông người Trung Quốc đã quẳng bút làm thơ từ nhiều thập niên mà chuyên tâm hơn vào việc viết văn.
Cả nước hiện có chưa đến chục vị viết phê bình văn học mà chủ yếu là U50, còn lớp trẻ, ngay gần đây, khi một đàn anh hỏi “tại sao các chú không có nhà phê bình cho thế hệ của mình?” thì không trả lời được. Còn lại đa số là dạng trí tuệ “comment”. Trong số này, có nhiều người chính đáng giúp ích cho sinh hoạt của nền văn, nhưng cũng không ít “nặc danh” nhảy ra khoe mẽ chút kiến thức ít ỏi nhưng chú mục của mình. Người Việt có câu “kẻ vô tình, người hữu ý”, muốn nói, khi anh đã chú mục vào việc gì thì anh rất dễ hơn người khác. Nhưng đó chỉ là cái chú mục của tiểu tiết như người Việt nói “tham bát bỏ mâm” hay “tham tiểu tiết mà bỏ mất đại cục”. Nhóm nặc danh không cần biết nguyên lý tiên quyết của tranh luận là “danh chính ngôn thuận” hoặc “oan có đầu, nợ có chủ”, cái chính kiến của mình mà còn giấu như “mèo giấu cứt”, đòi chơi du kích “ném đá giấu tay” thì còn gì để nói. Và cái chính họ làm là xăm soi vào lỗi chính tả. Có một phương ngôn rằng “chớ cúi nhìn xuống chân, bạn có thể không vấp ngã nhưng chẳng bao giờ thấy được những vì sao!” Ở đời, trèo nhiều ngã nhiều, trèo ít ngã ít, không trèo không ngã. Một bài tiểu luận chưa bao giờ viết được, viết có hai mẩu comments đã loanh quanh, tên thì giấu vì sợ (sợ cả quyền lực lẫn trí tuệ), thì đòi cao đàm khoát luận những thứ cao siêu làm gì?!
Dân tộc ta đã ngót trăm triệu người, đang trở thành cường quốc về dân số, rất cần thiết để chúng ta có một vài hoặc nhiều hơn những tác giả xứng tầm. “Dân hai nhăm triệu ai người lớn/ Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con” của thi sĩ Tản Đà vẫn là thách thức của chúng ta. Người Việt chưa nói đến tài năng, chỉ cần nói chúng ta trưởng thành chưa đã rất khó. Vì sao? Vì chúng ta dù học nhiều mà không có thói quen suy xét bằng lý trí. Không có lý trí thì học nhiều cũng chỉ là “ngăn kéo thông tin” thôi. Riêng tôi không ít lần đưa tay phải ra bắt, thì người kia lại úp bàn tay trái đưa ra kiểu ban phát. Văn hóa của anh ta thấp thế à? Không, anh ta không bao giờ dám đưa tay trái cho lãnh đạo. Sau khi làm vậy chắc anh ta sẽ đắc ý, mình khôn ngoan và đã hạ thấp được kẻ khác. Một lối khôn, một cách sống không bao giờ có thể trưởng thành.
Một bức toan trắng còn hơn một bức vẽ tồi, bởi vì bức toan trắng đó dự phóng cho một tác phẩm mới vĩ đại. Môi trường văn học của chúng ta toàn cỏ mọc lè tè đã ô nhiễm rất cần khai quang để những cây đại thụ văn học khác lớn lên. Những nhà văn, nhà thơ bao cấp đã khánh kiệt cả vốn liếng lẫn cơ hội rồi, chớ đứng bịt cửa chắn đường đòi “rót vốn” như doanh nghiệp đã phá sản đòi tái cơ cấu nữa. Rút cục có mấy vần thơ đã đánh vớt cả cuộc đời nhàn nhã mang danh chữ nghĩa, người Pháp có câu “không ai được tất cả, không ai mất tất cả”. Cái may mắn tem phiếu đầu tiên đó không kéo dài mãi để trở thành con đường danh vọng vĩnh cửu đâu?!
Hoàng Quang Thuận chính là tấm màn đã hạ rồi! Dù không nhìn thấy thứ phao nháy đó, chắc hẳn từ đây những ai đòi bày trò giải rủng hay hội thảo thì đều run cầm cập, bởi vì sự nhợt nhạt, mủn mục, tàn rã của nền văn học đòi ưu tiên bao cấp vô thời hạn đã phơi ra một lỗ thủng to tướng cuối cùng rồi. Người ta không dễ chơi trò ấp úng, úp mở, mê dụ bạn văn và bạn đọc mãi được.
NHĐ 21/5/2015
(*): bạn đọc tra Google thì sẽ biết nhiều và rõ hơn các thông tin về nhà thơ Hoàng Quang Thuận
Comments